Ý kiến thăm dò
Bạn quan tâm đến chuyên mục nào trên trang?
Về di tích lịch sử, văn hóa Quốc Gia đền thờ Tể tướng Thái bảo Đại vương Nguyễn Hiệu
Ngày 16/09/2024 17:18:38
Nguyễn Hiệu vốn họ Hà, sinh ra ở Hà Tây (nay là Hà Nội), lên 8 tuổi, được người cô ruột đem về xã Lan Khê, Nông Cống (nay là xã Nông Trường, huyện Triệu Sơn) Thanh Hóa nuôi dưỡng và đổi theo họ của người chồng. Từ đó ông có tên là Nguyễn Hiệu (1674-1735).
Toàn cảnh Đền thờ Nguyễn Hiệu tại xã Nông Trường.
Sống ở giai đoạn đất nước vừa qua chiến tranh Trịnh - Mạc đến chiến tranh Trịnh - Nguyễn, Nguyễn Hiệu trực tiếp nhìn thấy hậu quả nặng nề là cảnh đồng ruộng xóm làng tàn phá; dân tình ly tán, thậm chí bị giết hại. Vốn là người thông minh, hiếu học từ nhỏ, 13 tuổi ông đã tham dự kỳ thi Ứng khoa ở Nông Cống đỗ hạng trung vào năm Đinh Mão (1687). Năm 16 tuổi ông dự kỳ thi Hương khoa Canh Ngọ (1690) và đỗ hàng thứ tư. Năm Tân Mùi (1691), khi 17 tuổi, ông tiếp tục ra Thăng Long tham dự kỳ thi Hội, đỗ Tam Trường. Sau đó 6 năm (1697) ông được bổ giữ chức Huấn đạo phủ Kiến Xương khi 23 tuổi. Đến năm Canh Thìn (1700), ông tham dự kỳ thi Hội và đỗ Hội nguyên. Vào thi Đình, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân. Sau khi đỗ tiến sĩ, ông được triều đình Lê – Trịnh cử làm Giám sát ngự sử đạo Kinh Bắc, hàm chánh Thất phẩm. Đến năm 1703, ông được thế tử Trịnh Cương mời vào phủ chúa và giao cho chức Nội tán, chăm lo công việc nội phủ. Khi Trịnh Cương lên nối ngôi chúa, Nguyễn Hiệu được mời về kinh thành giữ chức Đô cấp sự trung hình khoa (1709), thăng làm Hồng lô Tự khanh (1714). Đặc biệt vốn là vị quan thanh liêm, chính trực, ông đã dâng sách “Trị bình” (1715); được chúa Trịnh xem khen và “cất nhắc ông dùng vào việc lớn của quốc gia”, phong lên chức Thiêm sai Bồi tụng. Kể từ đây cuộc đời và sự nghiệp chính trị của Nguyễn Hiệu liên quan nhiều tới công tác tổ chức, tuyển chọn quan lại của triều đình. Ông không chỉ góp phần lựa chọn cho triều đình nhiều vị quan có đức, có tài mà ông còn minh oan cho một số người.
Các hiện vật tại Di tích được địa phương lưu giữ, bảo quản .
Năm 1726, Thanh Hóa bị nạn đói hoành hành, Nguyễn Hiệu là người được triều đình tin cẩn giao cho 14 vạn quan tiền ở kho Nhà nước để chẩn cấp cho dân. Với trọng t7ách của mình, ông vừa kịp thời cứu dân thoát đói đồng thời đảm bảo tiền bạc của Nhà nước không bị thất thoát. Năm 1727, ông được phong Đô Ngự sử; 1730 được cử giữ chức Thượng thư bộ Binh. Cũng chính trong năm 1730 do triều đình tăng tiền thuế, nhiều hộ đã bỏ làng đi trú ngụ. Nhìn thấy cảnh những người trong làng thì khốn đốn, các hộ trú ngụ thì nhà cửa vững vàng, ông nhận ra có sự không công bằng ở đây. Bởi vì lấy cớ là người trú ngụ mà họ được trốn tránh thuế. Ông đã tâu lên và xin không kể người trong làng, hay trú ngụ, cứ tính từng hộ để thu thuế đúng. Những kế sách của ông đã phần nào giúp cuộc sống người dân bớt chút khốn khó.
Cũng trong một đợt ban ân cho văn võ bách quan vào năm Nhâm Tý (1732), Nguyễn Hiệu đã được thăng làm Thiếu phó vinh phong Tá lý công thần. Đây là thời kỳ phát sinh nhiều bè đảng gây nhiều rối loạn, Trịnh Giang vốn tính hay nghi kỵ, sẵn sàng xử tử người nào trái ý. Nguyễn Hiệu là người dạy chúa từ thuở ấu thơ nhưng chỉ vì cố ý trì hoãn việc giết Đỗ Bá Phẩm, khiến chúa cả giận mà giáng chức ông, không cho giữ chức Tham tụng nữa và từ Thượng thư bộ Binh chuyển làm Thượng thư bộ Hình. Tuy vậy, chỉ sau đó 4 tháng, tức tháng 11-1734, khi Trịnh Giang được phong làm Đại nguyên soái thống quốc chính, trong cuộc ban ân, Chúa lại cho Nguyễn Hiệu làm Thượng thư bộ Lại, hàm Thiếu bảo, vào phủ chúa làm việc. Trở lại phủ chúa chưa được bao lâu, mới chừng 5 tháng, Nguyễn Hiệu bệnh nặng và qua đời khi mới bước vào tuổi 62. Sách “Đại Việt sử ký tục biên” chép về ông như sau: Nguyễn Hiệu là người trọng hậu, giữ mình ngay thẳng, thích bồi dưỡng kẻ sĩ, dẫn dắt kẻ hậu tiến. Đối với quan nhỏ cũng tiếp đãi theo lễ. Lúc tuổi già cầm đại chính, mong đổi phép tắc hà khắc, sửa phú dịch cho công bằng, nhẹ việc trưng thu thôi thúc, đều tự mình chủ bàn những việc ấy, trăm họ được nhờ”. Sau khi mất, Nguyễn Hiệu được triều đình Lê - Trịnh tặng chức Thái bảo và truy tặng Đại tư đồ, gia phong làm Phúc thần.
Hiện nay đền thờ còn lưu giữ rất nhiều vật quý, trong đó có bức trúc thư của Vua Lê Hiển tông tặng cha con Nguyễn Hiệu năm 1775 được chạm khắc trên gỗ, trang trí rất tinh xảo; 4 câu đối bằng gỗ có niên đại từ thế kỷ XVIII, lư hương bằng đá cổ, 20 bộ sắc phong...Để bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, năm 2020 đền thờ được được xếp hạng là di tích lịch sử, văn hóa cấp Quốc Gia./.
Văn Hùng
Biên soạn theo cuốn “Đại Việt sử ký tục biên” và ghi chép của xã Nông Trường
Cũng trong một đợt ban ân cho văn võ bách quan vào năm Nhâm Tý (1732), Nguyễn Hiệu đã được thăng làm Thiếu phó vinh phong Tá lý công thần. Đây là thời kỳ phát sinh nhiều bè đảng gây nhiều rối loạn, Trịnh Giang vốn tính hay nghi kỵ, sẵn sàng xử tử người nào trái ý. Nguyễn Hiệu là người dạy chúa từ thuở ấu thơ nhưng chỉ vì cố ý trì hoãn việc giết Đỗ Bá Phẩm, khiến chúa cả giận mà giáng chức ông, không cho giữ chức Tham tụng nữa và từ Thượng thư bộ Binh chuyển làm Thượng thư bộ Hình. Tuy vậy, chỉ sau đó 4 tháng, tức tháng 11-1734, khi Trịnh Giang được phong làm Đại nguyên soái thống quốc chính, trong cuộc ban ân, Chúa lại cho Nguyễn Hiệu làm Thượng thư bộ Lại, hàm Thiếu bảo, vào phủ chúa làm việc. Trở lại phủ chúa chưa được bao lâu, mới chừng 5 tháng, Nguyễn Hiệu bệnh nặng và qua đời khi mới bước vào tuổi 62. Sách “Đại Việt sử ký tục biên” chép về ông như sau: Nguyễn Hiệu là người trọng hậu, giữ mình ngay thẳng, thích bồi dưỡng kẻ sĩ, dẫn dắt kẻ hậu tiến. Đối với quan nhỏ cũng tiếp đãi theo lễ. Lúc tuổi già cầm đại chính, mong đổi phép tắc hà khắc, sửa phú dịch cho công bằng, nhẹ việc trưng thu thôi thúc, đều tự mình chủ bàn những việc ấy, trăm họ được nhờ”. Sau khi mất, Nguyễn Hiệu được triều đình Lê - Trịnh tặng chức Thái bảo và truy tặng Đại tư đồ, gia phong làm Phúc thần.
Hiện nay đền thờ còn lưu giữ rất nhiều vật quý, trong đó có bức trúc thư của Vua Lê Hiển tông tặng cha con Nguyễn Hiệu năm 1775 được chạm khắc trên gỗ, trang trí rất tinh xảo; 4 câu đối bằng gỗ có niên đại từ thế kỷ XVIII, lư hương bằng đá cổ, 20 bộ sắc phong...Để bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, năm 2020 đền thờ được được xếp hạng là di tích lịch sử, văn hóa cấp Quốc Gia./.
Văn Hùng
Biên soạn theo cuốn “Đại Việt sử ký tục biên” và ghi chép của xã Nông Trường
Tin cùng chuyên mục
-
Gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa ở làng Quần Thanh, xã Khuyến Nông
30/10/2024 14:32:36 -
Nông trại 2T Farm xã Minh Sơn mô hình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao
25/10/2024 07:52:36 -
Về thăm Đền thờ Tiến sỹ Đào Xuân Lan, xã An Nông
14/10/2024 16:02:01 -
Di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh Núi Nưa - Đền Nưa - Am Tiên và cuộc khởi nghĩa Bà Triệu.
08/10/2024 08:43:20
Về di tích lịch sử, văn hóa Quốc Gia đền thờ Tể tướng Thái bảo Đại vương Nguyễn Hiệu
Đăng lúc: 16/09/2024 17:18:38 (GMT+7)
Nguyễn Hiệu vốn họ Hà, sinh ra ở Hà Tây (nay là Hà Nội), lên 8 tuổi, được người cô ruột đem về xã Lan Khê, Nông Cống (nay là xã Nông Trường, huyện Triệu Sơn) Thanh Hóa nuôi dưỡng và đổi theo họ của người chồng. Từ đó ông có tên là Nguyễn Hiệu (1674-1735).
Toàn cảnh Đền thờ Nguyễn Hiệu tại xã Nông Trường.
Sống ở giai đoạn đất nước vừa qua chiến tranh Trịnh - Mạc đến chiến tranh Trịnh - Nguyễn, Nguyễn Hiệu trực tiếp nhìn thấy hậu quả nặng nề là cảnh đồng ruộng xóm làng tàn phá; dân tình ly tán, thậm chí bị giết hại. Vốn là người thông minh, hiếu học từ nhỏ, 13 tuổi ông đã tham dự kỳ thi Ứng khoa ở Nông Cống đỗ hạng trung vào năm Đinh Mão (1687). Năm 16 tuổi ông dự kỳ thi Hương khoa Canh Ngọ (1690) và đỗ hàng thứ tư. Năm Tân Mùi (1691), khi 17 tuổi, ông tiếp tục ra Thăng Long tham dự kỳ thi Hội, đỗ Tam Trường. Sau đó 6 năm (1697) ông được bổ giữ chức Huấn đạo phủ Kiến Xương khi 23 tuổi. Đến năm Canh Thìn (1700), ông tham dự kỳ thi Hội và đỗ Hội nguyên. Vào thi Đình, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân. Sau khi đỗ tiến sĩ, ông được triều đình Lê – Trịnh cử làm Giám sát ngự sử đạo Kinh Bắc, hàm chánh Thất phẩm. Đến năm 1703, ông được thế tử Trịnh Cương mời vào phủ chúa và giao cho chức Nội tán, chăm lo công việc nội phủ. Khi Trịnh Cương lên nối ngôi chúa, Nguyễn Hiệu được mời về kinh thành giữ chức Đô cấp sự trung hình khoa (1709), thăng làm Hồng lô Tự khanh (1714). Đặc biệt vốn là vị quan thanh liêm, chính trực, ông đã dâng sách “Trị bình” (1715); được chúa Trịnh xem khen và “cất nhắc ông dùng vào việc lớn của quốc gia”, phong lên chức Thiêm sai Bồi tụng. Kể từ đây cuộc đời và sự nghiệp chính trị của Nguyễn Hiệu liên quan nhiều tới công tác tổ chức, tuyển chọn quan lại của triều đình. Ông không chỉ góp phần lựa chọn cho triều đình nhiều vị quan có đức, có tài mà ông còn minh oan cho một số người.
Các hiện vật tại Di tích được địa phương lưu giữ, bảo quản .
Năm 1726, Thanh Hóa bị nạn đói hoành hành, Nguyễn Hiệu là người được triều đình tin cẩn giao cho 14 vạn quan tiền ở kho Nhà nước để chẩn cấp cho dân. Với trọng t7ách của mình, ông vừa kịp thời cứu dân thoát đói đồng thời đảm bảo tiền bạc của Nhà nước không bị thất thoát. Năm 1727, ông được phong Đô Ngự sử; 1730 được cử giữ chức Thượng thư bộ Binh. Cũng chính trong năm 1730 do triều đình tăng tiền thuế, nhiều hộ đã bỏ làng đi trú ngụ. Nhìn thấy cảnh những người trong làng thì khốn đốn, các hộ trú ngụ thì nhà cửa vững vàng, ông nhận ra có sự không công bằng ở đây. Bởi vì lấy cớ là người trú ngụ mà họ được trốn tránh thuế. Ông đã tâu lên và xin không kể người trong làng, hay trú ngụ, cứ tính từng hộ để thu thuế đúng. Những kế sách của ông đã phần nào giúp cuộc sống người dân bớt chút khốn khó.
Cũng trong một đợt ban ân cho văn võ bách quan vào năm Nhâm Tý (1732), Nguyễn Hiệu đã được thăng làm Thiếu phó vinh phong Tá lý công thần. Đây là thời kỳ phát sinh nhiều bè đảng gây nhiều rối loạn, Trịnh Giang vốn tính hay nghi kỵ, sẵn sàng xử tử người nào trái ý. Nguyễn Hiệu là người dạy chúa từ thuở ấu thơ nhưng chỉ vì cố ý trì hoãn việc giết Đỗ Bá Phẩm, khiến chúa cả giận mà giáng chức ông, không cho giữ chức Tham tụng nữa và từ Thượng thư bộ Binh chuyển làm Thượng thư bộ Hình. Tuy vậy, chỉ sau đó 4 tháng, tức tháng 11-1734, khi Trịnh Giang được phong làm Đại nguyên soái thống quốc chính, trong cuộc ban ân, Chúa lại cho Nguyễn Hiệu làm Thượng thư bộ Lại, hàm Thiếu bảo, vào phủ chúa làm việc. Trở lại phủ chúa chưa được bao lâu, mới chừng 5 tháng, Nguyễn Hiệu bệnh nặng và qua đời khi mới bước vào tuổi 62. Sách “Đại Việt sử ký tục biên” chép về ông như sau: Nguyễn Hiệu là người trọng hậu, giữ mình ngay thẳng, thích bồi dưỡng kẻ sĩ, dẫn dắt kẻ hậu tiến. Đối với quan nhỏ cũng tiếp đãi theo lễ. Lúc tuổi già cầm đại chính, mong đổi phép tắc hà khắc, sửa phú dịch cho công bằng, nhẹ việc trưng thu thôi thúc, đều tự mình chủ bàn những việc ấy, trăm họ được nhờ”. Sau khi mất, Nguyễn Hiệu được triều đình Lê - Trịnh tặng chức Thái bảo và truy tặng Đại tư đồ, gia phong làm Phúc thần.
Hiện nay đền thờ còn lưu giữ rất nhiều vật quý, trong đó có bức trúc thư của Vua Lê Hiển tông tặng cha con Nguyễn Hiệu năm 1775 được chạm khắc trên gỗ, trang trí rất tinh xảo; 4 câu đối bằng gỗ có niên đại từ thế kỷ XVIII, lư hương bằng đá cổ, 20 bộ sắc phong...Để bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, năm 2020 đền thờ được được xếp hạng là di tích lịch sử, văn hóa cấp Quốc Gia./.
Văn Hùng
Biên soạn theo cuốn “Đại Việt sử ký tục biên” và ghi chép của xã Nông Trường
Cũng trong một đợt ban ân cho văn võ bách quan vào năm Nhâm Tý (1732), Nguyễn Hiệu đã được thăng làm Thiếu phó vinh phong Tá lý công thần. Đây là thời kỳ phát sinh nhiều bè đảng gây nhiều rối loạn, Trịnh Giang vốn tính hay nghi kỵ, sẵn sàng xử tử người nào trái ý. Nguyễn Hiệu là người dạy chúa từ thuở ấu thơ nhưng chỉ vì cố ý trì hoãn việc giết Đỗ Bá Phẩm, khiến chúa cả giận mà giáng chức ông, không cho giữ chức Tham tụng nữa và từ Thượng thư bộ Binh chuyển làm Thượng thư bộ Hình. Tuy vậy, chỉ sau đó 4 tháng, tức tháng 11-1734, khi Trịnh Giang được phong làm Đại nguyên soái thống quốc chính, trong cuộc ban ân, Chúa lại cho Nguyễn Hiệu làm Thượng thư bộ Lại, hàm Thiếu bảo, vào phủ chúa làm việc. Trở lại phủ chúa chưa được bao lâu, mới chừng 5 tháng, Nguyễn Hiệu bệnh nặng và qua đời khi mới bước vào tuổi 62. Sách “Đại Việt sử ký tục biên” chép về ông như sau: Nguyễn Hiệu là người trọng hậu, giữ mình ngay thẳng, thích bồi dưỡng kẻ sĩ, dẫn dắt kẻ hậu tiến. Đối với quan nhỏ cũng tiếp đãi theo lễ. Lúc tuổi già cầm đại chính, mong đổi phép tắc hà khắc, sửa phú dịch cho công bằng, nhẹ việc trưng thu thôi thúc, đều tự mình chủ bàn những việc ấy, trăm họ được nhờ”. Sau khi mất, Nguyễn Hiệu được triều đình Lê - Trịnh tặng chức Thái bảo và truy tặng Đại tư đồ, gia phong làm Phúc thần.
Hiện nay đền thờ còn lưu giữ rất nhiều vật quý, trong đó có bức trúc thư của Vua Lê Hiển tông tặng cha con Nguyễn Hiệu năm 1775 được chạm khắc trên gỗ, trang trí rất tinh xảo; 4 câu đối bằng gỗ có niên đại từ thế kỷ XVIII, lư hương bằng đá cổ, 20 bộ sắc phong...Để bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, năm 2020 đền thờ được được xếp hạng là di tích lịch sử, văn hóa cấp Quốc Gia./.
Văn Hùng
Biên soạn theo cuốn “Đại Việt sử ký tục biên” và ghi chép của xã Nông Trường
Tin khác
Tin nóng
Xem nhiều
Xây dựng nông thôn mới
Xây dựng nông thôn mới
-
Thông báo về việc công khai kết quả lấy ý kiến sự hài lòng của người dân, đề nghị công nhận huyện Triệu Sơn đạt chuẩn NTM nâng cao năm 2024.
26/10/2024 -
Huyện Triệu Sơn triển khai lấy ý kiến sự hài lòng của người dân về kết quả xây dựng huyện đạt chuẩn NTM nâng cao năm 2024.
22/10/2024 -
Đoàn công tác V05, Bộ Công an hướng dẫn tiêu chí an ninh, trật tự trong xây dựng huyện Triệu Sơn đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao năm 2024
18/10/2024 -
UBND huyện tổ chức hội nghị thảo luận, bỏ phiếu đề nghị xét, công nhận huyện đạt chuẩn NTM NC năm 2024.
17/10/2024 -
Lãnh đạo huyện chúc mừng kỷ niệm 94 năm Ngày thành lập Hội Nông dân
14/10/2024